ĐĂNG TIN
logo
Online:
Visits:
Stories:
Profile image
Tác giả: khatkhaoxanh
Trang tin cá nhân | Bài đã đăng
Lượt xem

Hiện tại:
1h trước:
24h trước:
Tổng số:
Để tôi nhặt lại
Monday, December 5, 2016 8:54
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.


thamngoinhanhocuadarwin

THĂM NGÔI NHÀ CŨ CỦA DARWIN

Hoàng Kim

Down House là ngôi nhà cũ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin và gia đình ông. Darwin tại đó đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác.

charles-robert-darwin

Charles Robert Darwin  (12 tháng 2, 18099 tháng 4, 1882) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học người Anh. Ông là người đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. “Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin, xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11, năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa. 

Tôi đã được trãi nghiệm một phần trong  90 năm Viện KHKTNN miền Nam; 60 năm Đại học Nông Lâm TP. HCM  và may mắn được “Thăm ngôi nhà cũ của Darwin” , du học ở “Viện Di truyền Mendel Tiệp Khắc ”, thăm Praha Goethe và lâu đài cổ , Tiệp Khắc kỷ niệm một thờiDạo chơi cùng Goethe, Di sản Walter Scott, Nghị lực, Học để làm ở Ấn Độ, … có thời gian làm việc cùng với Những người bạn Nga của Viện Vavilop”, đọc được tài liệu quý 500 năm nông nghiệp Brazil,  may mắn tiếp cận được những trang vàng của những người thầy lớn,  với tầm nhìn rộng có sức khái quát cao và tài năng khoa học phi thường. Tôi nhiều điều chưa kịp ghi lại.  Nay bất chợt gặp lại chùm ảnh cũ “một thời để nhớ” Thăm ngôi nhà cũ của Darwin, bỗng bâng khuâng ngắm nhìn đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc muôn loài,.ngưỡng mộ sức khái quát trong đúc kết “Nguồn gốc các loài” của ông. Triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc. “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên

*
Cựu Viện Trưởng GS.TS. Bùi Chí Bửu và Phó Viện Trưởng TS. Đào Huy Đức đã chủ biên tài liệu VIỆN KHOA HỌC KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP MIỀN NAM 1925-2015. Tác giả: Bùi Chí Bửu, Trần Thị Kim Nương, Nguyễn Hồng Vi, Nguyễn Đỗ Hoàng Việt, Nguyễn Hiếu Hạnh, Đinh Thị Lam, Trần Triệu Quân, Võ Minh Thư, Đỗ Thị Nhạn, Lê Thị Ngọc, Trần Duy Việt Cường, Nguyễn Đức Hoàng Lan, Trần Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Kim Thoa, Đinh Thị Hương, Trần Văn Tưởng, Phan Trung Hiếu, Hồ Thị Minh Hợp, Đào Huy Đức* (*Chủ biên chịu trách nhiệm tổng hợp, liên hệ [email protected] [email protected]). Tóm tắt nông nghiệp 90 năm thật thú vị:

Khoa học nông nghiệp là một tổng thể của kiến thức thực nghiệm, lý thuyết và thực tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do các nhà nghiên cứu phát triển với các phương pháp khoa học, trong đó đặc biệt là sự quan sát, giải thích, và dự báo những hiện tượng của nông nghiệp. Việt Nam là đất nước “dĩ nông vi bản”, do đó nông nghiệp của chúng ta gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Viện đã không ngừng phát triển trong chặng đường lịch sử 90 năm. Viện đã cùng đồng hành với nông dân Việt Nam, người mà lịch sử Việt Nam phải tri ân sâu đậm. Chính họ là lực lựơng đông đảo đã làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thành công; đồng thời đã đóng góp xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tạo nên những đột phá liên tục làm tiền đề cho công nghiệp và dịch vụ phát triển như ngày nay. Sự kiện 02 triệu người chết đói năm 1945 luôn nhắc người Việt Nam rằng, không có độc lập dân tộc, không có khoa học công nghệ, sẽ không có ổn định lương thực cho dù ruộng đất phì nhiêu của Đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng vô cùng to lớn.

Lịch sử của Viện cũng là lịch sử của quan hệ hợp tác mật thiết với các tổ chức nông dân, với lãnh đạo địa phương, với các Viện nghiên cứu trực thuộc VAAS và các Trường, Viện khác, với các tổ chức quốc tế. Khoa học nông nghiệp không thể đứng riêng một mình. Khoa học nông nghiệp phải xem xét cẩn thận các yếu tố kinh tế, môi trường, chính trị; trong đó có thị trường, năng lượng sinh học, thương mại hóa toàn cầu. Đặc biệt, nông nghiệp phải nhấn mạnh đến chất lượng nông sản và an toàn lương thực, thực phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Lịch sử đang đặt ra cho Viện những thách thức mới trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, thay vào đó là rào cản kỹ thuật đối với nông sản trên thương trường quốc tế. Thách thức do bùng nổ dân số, thiếu đất nông nghiệp, thiếu tài nguyên nước ngọt, biến đổi khí hậu với diễn biến thời tiết cực đoan, thu nhập nông dân còn thấp là những nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nhưng rất vinh quang của Viện, đang mong đợi sự năng động và thông minh của thế hệ trẻ.”

IAS 1918 1925

GS.TS. Auguste Chavalier (1873-1956) là Người gười thành lập Viện Khảo cứu Khoa học Đông Dương, năm 1918;  Yves Henry (1875-1966) Người thành lập Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương, năm 1925;  GS. Tôn Thất Trình, GS. Thái Công Tụng, GS. Lương Định Của, …là những khuôn mặt tiêu biểu của Viện từ sau khi Viện thành lập cho đến năm 1975.

Lưu lại một số bức ảnh tư liệu về kỷ niệm một thời không thể nào quên.

GSHau

Thầy Vũ Công Hậu nghỉ hưu ở Hà Nội, chúng tôi ra đón thầy vào Trung tâm Hưng Lộc để thầy giúp gầy dựng Bộ môn Cây Ăn Quả.
GSThongvaHau
GS Trần Thế Thông, GS Vũ Công Hậu làm việc cùng chuyên gia Viện Vavilop Liên Xô.

Viện từ năm 1975 đến năm 2015 là một Viện nông nghiệp lớn đa ngành, duy nhất trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam. Đó là tầm nhìn phù hợp điều kiện thực tế thời đó. Viện có một đội ngũ cán bộ khoa học nông nghiệp hùng hậu, có trình độ chuyên môn cao, mà thế hệ đầu tiên của giai đoạn hai mươi lăm năm đầu tiên sau ngày Việt Nam thống nhất (1975-2000)  gồm các chuyên gia như:  Giáo sư Trần Thế Thông, Giáo sư Vũ Công Hậu, Giáo sư Lê Văn Căn, Giáo sư Mai Văn Quyền, Giáo sư Trương Công Tín, Giáo sư Dương Hồng Hiên, Giáo sư Phạm Văn Biên, … là những cánh chim đầu đàn trong khoa học nông nghiệp.


GS Vu Cong Hau và chuyên gia Nga

GS. Vũ Công Hậu và chuyên gia Liên Xô trong chương trình thu thập bảo tồn tài nguyên cây trồng.
BotruongNguyenNgocTruu
Mô hình trồng xen lạc, đậu xanh, đậu nành, đậu rồng với ngô lai, sắn có hiệu quả cao ở vùng Đông Nam Bộ và Duyên hải miền Trung. TS. Hoàng Kim đang báo cáo kết quả nghiên cứu và phát triển mô hình trồng xen ngô đậu với bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu.
GS MaiVanQuyenvaIRRI

GS Mai Văn Quyền hướng dẫn chuyên gia IRRI và chuyên gia Viện Lúa ĐBSCL thăm mô hình trồng xen ngô đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ.

VietCIATcassavafamily1

 Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên với chuyên gia CIAT và các lãnh đạo Mạng lưới Sắn châu Á, châu Mỹ La tinh tại Hội thảo Sắn châu Á tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh năm 2000

GS Bien va BT Ngo

Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên hướng dẫn Bộ trưởng Lê Huy Ngọ thăm các giống điều ghép PN1 và các giống điều mới chọn tạo tại Trung tâm Hưng Lộc, Đồng Nai

KM397 15

Viện Trưởng GS. Bùi Chí Bửu hướng dẫn Tổng Giám đốc CIAT thăm các giống sắn mới.

QVT NgoQuangVinh tham san

Quyền Viện Trưởng TS. Ngô Quang Vình cùng các chuyên gia CIAT đánh giá các giống sắn mới (KM419 bên phải và KM140 bên trái)

Viện có sự cộng tác của nhiều chuyên gia lỗi lạc quốc tế đã đến làm việc ở Viện như: GSTS. Norman Bourlaug (CIMMYT), GS.TS. Kazuo Kawano, TS. Reinhardt Howeler, GS.TS. Hernan Ceballos, TS. Rod Lefroy, (CIAT),  GS.TS. Peter Vanderzaag, TS. Enrique Chujoy, TS. Il Gin Mok, TS. Zhang Dapheng (CIP), GS.TS. Wiliam Dar, TS. Gowda (ICRISAT), GSTS.  V. R. Carangal (IRRI), TS. Magdalena Buresova , GSTS. Pavel Popisil (Tiệp), VIR, AVRDC,  …

TranThanhHung

Viện trưởng TS. Trần Thanh Hùng (giữa) nhận hoa chúc mừng của các đồng nghiệp

Chúng ta còn nợ nhiều những chuyên khảo sâu, các đúc kết trầm tích lịch sử, văn hóa, sinh học  của vùng đất này để đáp ứng tốt hơn cho các vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đời sống và  an sinh xã hội Thật đáng tự hào về một khối trí tuệ lớn những cánh chim đầu đàn nêu trên. Chúng ta còn nợ những chuyên khảo sâu của một tư duy mạch lạc để vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” nhằm tìm thấy trong sự rối loạn và góc khuất lịch sử  dòng chủ lưu tiến hóa của văn hóa, giáo dục , nông nghiệp Việt.

Hoàng Kim

Những bài viết của tôi

Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi
Helen Keller người mù điếc huyền thoại
Vua Solomon và sách khôn ngoan
Vườn Quốc gia ở Việt Nam
Ong và Hoa
Thơ thiền Thích Nhất Hạnh
Nga hoàng Nikolai II
Thơ hay về biển
Từ Mao Trạch Đông đến Tập Cận Bình
Tô Đông Pha thơ ngoài ngàn năm
Nối nhịp cầu văn hóa Việt
Nối nhịp cầu văn hóa Việt
Con đường xanh ta đi
Sông Thương
Phạm Trung Nghĩa nhà khoa học xanh

Ông Hồ Sáu làm kinh tế giỏi
Thạch Lam hạt ngọc đời nay
Việt Nam Châu Phi hợp tác Nam Nam
Khát khao xanh
Có ba dòng văn chương
Giấc mơ hạnh phúc
Tây Nguyên: Đọc lại và suy ngẫm
Nhà tôi có chim về làm tổ

Con đường lúa gạo Việt Nam
Posted on 16.11.2016

Đến Long Phú, Sóc Trăng bạn sẽ gặp con đường Trường Khánh - Đại Ngãi nối vựa lúa chất lượng ngon và năng suất cao nhất nước.

CON ĐƯỜNG LÚA GẠO VIỆT NAM

Hoàng Kim

Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa. Giáo sư tiến sỹ, anh hùng lao động Nguyễn Văn Luật, nguyên Viện trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long,  tác giả chính của cụm công trình ‘Nghiên cứu và phát triển lúa gạo’ đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh, đã có hai bài viết quan trọng giới thiệu về “Lịch sử cây lúa Việt Nam” và “Cải tiến giống lúa cho sản xuất lúa gạo tại Việt Nam”. Giáo sư đã đưa ra các bằng chứng và dẫn liệu ‘Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa’ và ‘các tiến bộ của giống lúa Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21’. Hai bộ sách: Nguyễn Văn Luật (chủ biên), xuất bản lần đầu năm 2001, 2002, 2003 Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20, ba tập Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1.347 trang, và Nguyễn Thị Lang, Bùi Chí Bửu 2011. Khoa học về cây lúa, di truyền và chọn giống. Nhà Xuất bản Nông Nghiệp, 623 trang đã đúc kết về những tiến bộ này.

Con đường lúa gạo Việt Nam” là chùm bài lược thuật về các dâng hiến lặng lẽ của một số nhà nông học,  nhà giáo và nông dân giỏi nghề nông. Họ gắn bó cuộc đời với nông dân, nông nghiệp, nông thôn, và những sinh viên, học viên nghề nông để làm ra những hạt gạo ngon hơn, tốt hơn cho bát cơm của người dân. Tập tài liệu nhỏ này mục đích nhằm kể lại những mẫu chuyện đời thường nghề nông cho các em sinh viên đọc thêm ngoài giờ học chính.

Thầy Norman Borlaug nhà khoa học xanh, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói, đã có dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

Dạy học không chỉ trao truyền tri thức, kỹ năng nghề nghiệp mà còn trao truyền ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

Nam Bộ Việt Nam, quê hương của nhà bác học nông dân Lương Định Của, là nơi con đường lúa gạo Việt Nam khởi phát và tỏa rộng, là nơi mở đầu cho chùm bài viết này. Về miền TâySao anh chưa về lại miền Tây. Nơi một góc đời anh ở đó. Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu. Tên đất tên người chín nhớ mười thương. Anh có về Bảy Núi Cửu Long. Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ. Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ. Anh có về nơi ấy với em không?” (thơ Hoàng Kim).

Lương Định Của con đường lúa gạo
Nơi tỏa rộng con đường lúa gạo Việt

Những chân dung nghề nông phác thảo

Thầy Quyền nghề nông của chúng tôi
Hồ Quang Cua gạo thơm Sóc Trăng
Phạm Trung Nghĩa nhà khoa học xanh
Nguyễn Thị Trâm người Thầy lúa lai
Bảy Nhị chuyện cổ tích cho người lớn
Từ Sắn Việt Nam đến Lúa Siêu Xanh
Những người Việt lỗi lạc ở FAO
Bùi Huy Đáp lúa xuân Việt Nam
Lê Hùng Lân gạo ngon Hoa Tiên
Kênh ông Kiệt giữa lòng dân
Ông Hồ Sáu làm kinh tế giỏi
Thầy Xuân lúa và hệ canh tác

DẠY, HỌC VÀ LÀM cây lương thực
Gạo Việt chất lượng và thương hiệu
Trò chuyện với anh Đoàn Nam Sinh

Con đường xanh của chúng ta
Công việc này trao lại cho em
Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời
Hoa của Đất

Về miền Tây
Hoa Lúa

Xin giới thiệu ‘Hồ Quang Cua gạo thơm Sóc Trăng‘ trong chùm bài viết trên

GaoThomSocTrang

HỒ QUANG CUA GẠO THƠM SÓC TRĂNG

Hoàng Kim

Nhà văn, nhà báo Huỳnh Kim vừa có bài viết ấn tượng Gạo thơm ST ra thế giới viết về kỹ sư Hồ Quang Cua, tác giả nhãn hiệu Gạo thơm Sóc Trăng nổi tiếng ST5, ST20,… “Thái Lan làm được sao mình không làm? ” “ST ra thế giới nông dân và doanh nghiệp cùng có lợi“. Những trăn trở của anh Hồ Quang Cua và những người tâm huyết “chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao” cũng là trăn trở của hàng triệu nông dân Việt Nam.

ST5

Làm gì để nâng cao giá trị canh tác, giá trị sử dụng và hiệu quả kinh tế để hạt ngọc Việt đi ra thế giới ? Từ nghiên cứu chọn tạo giống tốt, hoàn thiện quy trình kỹ thuật thâm canh, đến phục tráng, thực nghiệm, nhân giống gốc, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, đến tổ chức hệ thống sản xuất chế biến kinh doanh khép kín là  một chuỗi công việc to lớn để có được chén cơm ngon như những tấm hình minh họa dưới đây

LuaSocTrang

Anh Hồ Quang Cua (thứ nhất bên trái) cùng anh Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT (thứ hai từ bên phải), trong hội thảo đầu bờ trên cánh đồng mẫu lớn. Chúng tôi đang học theo thầy Lương Định Của con đường lúa gạo, học theo anh để tiếp nối công việc của anh và thực hiện đề tài Chọn tạo giống lúa hướng đến thích ứng với biến đổi khí hậu từ nguồn gen siêu lúa xanh (GSR) và đặc sản Sóc Trăng (ST). Tôi biết ơn anh Hồ Quang Cua vì tấm lòng của anh đối với nông dân, đối với cây lúa, đối với nghề nông  và những kỹ năng cuộc sống quý giá mà anh đã thân thiết trao đổi, gợi mở,…

Tôi nhớ đến anh là nhớ đến gạo thơm Sóc Trăng và ngược lại. Ra bến xe đò về thành phố, hỏi đến ông Cua gạo thơm Sóc Trăng là hầu như ai cũng biết và họ hồ hởi khoe ông Cua và gạo trắng, gạo ngon, … rượu  ngon Sóc Trăng và nếp cẩm.  Chợt dưng tôi thấu hiểu những ông Bụt đời thường, những ông Bụt của đất, của nước, của hạt ngọc phương Nam.

ST Tim

Trăn trở về Lúa Gạo Việt Nam chiến lược chọn tạo giống, tôi viết thư trao đổi với anh Lê Huy Hàm, Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp. Anh tán đồng với phương pháp “đưa thêm các nguồn gen quý vào những giống lúa vốn đã rất phổ biến và nổi tiếng trong sản xuất” như cách chúng ta đã làm trong tạo chọn và phát triển các giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím) công nhận giống năm 1997 thành vùng giống sản xuất lớn, thâm canh cao ở Bình Minh, Vĩnh Long năm 2007, đưa năng suất khoai lang từ 9,00 tấn lên 29,8 tấn trên phạm vi toàn tỉnh; Giống sắn KM98-5, KM419 tạo giống cũng theo cách trên và nay đã thành vùng giống sắn sản xuất lớn ở Tây Ninh, đưa năng suất sắn từ 8,5- 12,5 tấn /ha của giống sắn địa phương lên 17,0- 27,0 tấn/ha và nay toàn tỉnh đạt năng suất 30,0 tấn/ha, cá biệt những nông hộ sản xuất giỏi đạt 50,0 – 65,0 tấn/ha trên diện rộng, chủ lực là giống sắn mới KM419 chiếm trên 50% diện tích sắn và các giống KM94, KM98-5… Điều này cũng như công việc chúng ta đang làm đưa thêm nguồn gen quý vào giống lúa “hoa hậu” OM6976 của nhóm tác giả Nguyễn Thị Cúc Hòa, Phạm Trung Nghĩa và cộng sự Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long, để chọn tạo và phát triển dòng OM6976-41 (GSR89), hoặc những việc chúng ta đang làm mới đây nhằm kết hợp GSR với ST.

Anh Lê Huy Hàm đồng tình và trao đổi nhiều thông tin định hướng chọn tạo giống lúa (như đã nêu ở bài trên). Anh viết: “Kính gửi anh Kim. Cám ơn anh đã giới thiệu về các giống lúa mới có tiềm năng ứng phó với biến đổi khí hậu. Điều này tôi rất quan tâm. Hiện nay chúng tôi đi theo hướng là không tạo ra giống lúa mới mà chỉ cải tạo giống cũ. Lý do vì chúng ta đã tạo ra quá nhiều giống lúa mới, nông dân hoa mặt không còn biết phân biệt giống nào tốt, giống nào xấu nữa (Không như sắn và khoai lang, số giống chọn tạo không nhiều nhưng rất bền trong sản xuất – HK). Nhiều giống lúa cũng làm cho việc xây dựng thương hiệu giống và thương hiệu gạo khó khăn, là một trong các nguyên nhân làm gạo Việt Nam có giá thấp trên thị trường. Vì vậy hiện nay tôi đang nâng cao tinh chịu mặn và tình chịu ngập của các giống đại trà lúa miền Bắc và miền Nam bằng việc đưa gen Saltol (chịu mặn) và gen Sub1 (chịu ngập) vào các giống lúa đại trà của Việt Nam. Mức chịu mặn giai đoạn mạ hiện nay đã đạt 5-6 ‰, chiu ngập 10-15 ngày, sau khi nước rút lại mọc lại. Chúng ta có thể cùng nhau thử nghiệm các giống này tại Sóc Trăng. Anh làm cầu nối với tỉnh thì rất tốt. Chúng ta cùng nhau tìm kinh phí. Chúng tôi hy vọng rằng bằng cách này, chúng ta sẽ không tao ra các giống mới mà chỉ cải thiện các giống đã chấp nhận rộng rãi ở các đặc tính chịu mặn, chịu ngập, kháng rầy, đạo ôn, khô văn, bạc lá… và cuối cùng tạo ra Multiple tolerant rice varieties hay super rice. Đây là đặc tính cần để ứng phó với biến đổi khí hậu. Chúng tôi cũng sẵn sàng tham gia với kế hoạch của anh về SGR(Green Super Rice – Siêu lúa xanh)ở tỉnh Sóc Trăng, Phú Yên và Gia Lai. Anh móc nối, có thể chúng ta sẽ tổ chức gặp nhau Viện Di truyền – Đại học Nông Lâm hoặc tại các tỉnh trên. Chúng tôi có thể lại tạo để chuyển thêm gen saltol vào SGR để tăng tính chịu mặn, đánh giá ở góc độ phân tử, sau đó anh cùng với Sóc Trăng, Phú Yên , Gia Lai và các nơi đánh giá tại địa Phương. Anh suy nghĩ nhé. Chúc anh khỏe, Lê Huy Hàm

ST5 nhân giống

Tôi muốn khởi đầu câu chuyện “Lúa Gạo Việt Nam diễn đàn chọn tạo giống” bằng sự Tổng quan “Con đường lúa gạo Việt Nam” kể về nhiều nhân vật kỳ vĩ và nhiều nhà khoa học tâm huyết tài năng như: Lương Định Của, Tôn Thất Trình, Bùi Huy Đáp, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Vũ Tuyên Hoàng, Mai Văn Quyền, Trần Văn Đạt, Bùi Bá Bổng, Bùi Chí Bửu, Nguyễn Công Tạn, Phan Phải, Nguyễn Thị Trâm, Lê Huy Hàm, Tạ Minh Sơn, Nguyễn Trí Hoàn, Phạm Văn Ro, Nguyễn Thị Cúc Hòa, Nguyễn Thị Lang, Đỗ Khắc Thịnh, Nguyễn Văn Hoan, Mai Thành Phụng, Nguyễn Gia Quốc … Họ đã đóng góp to lớn trong chọn tạo giống lúa, góp phần làm nên diện mạo “Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20”. Nhưng tôi xin được viết chậm lại để có thời gian thong thả hơn. Sự cần thiết phải đi thẳng vào những vấn đề nóng hổi, cấp bách của thực tiễn sản xuất đang đòi hỏi: “Làm gì để phát triển khoa học công nghệ mới tạo được đột phá cho hạt ngọc Việt?“.

Chúng ta hãy bắt đầu từ anh Hồ Quang Cua và gạo thơm Sóc Trăng, từ vùng đất quê hương Long Phú, Đại Ngãi (Đại Nghĩa theo cách gọi của tiếng miền Nam), đi trên con đường lúa gạo Trường Khánh, Đại Nghĩa của dân tộc Việt, nơi sinh thành của nhà bác học cây lúa Lương Định Của. Chúng ta cũng bắt đầu bằng ý kiến thảo luận của anh Lê Huy Hàm, chuyên gia về di truyền chọn giống lúa. Tôi hiểu ý anh Hàm “Chọn giống lúa là đừng ham tạo ra nhiều giống mà cần tuyển chọn kỹ để có giống lúa ưu tú phổ biến thành thương hiệu nổi bật, đứng vững trong sản xuất“. Mời bạn hãy đọc “Gạo thơm Sóc Trăng ra thế giới” của Huỳnh Kim. Bài viết ngắn nhưng nhiều thông tin lắm. Đất nước cần có nhiều Hồ Quang Cua và “gạo thơm Sóc Trăng” hơn nữa cho bà con nông dân và cho sản xuất! Đọc Huỳnh Kim, tôi cảm giác như gặp lại Sơn Nam: ” … Năm tháng đã trôi qua/ Ray rứt mãi đời ta/ Nắng mưa miền cố thổ/ Phong sương mấy độ qua đường phố/ Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê “. Năm tháng sẽ qua đi, chỉ những thành quả thiết thực cho chén cơm manh áo của người dân là còn lại.

Đất Nước cần nhiều những nhà khoa học dấn thân, cần cù, phúc hậu, trí tuệ chọn tạo giống lúa, cây lương thực ngon hơn, tốt hơn cho người dân, nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật thâm canh tổng hợp, các giải pháp khoa học công nghệ để người dân lao động bớt nhọc nhằn hơn, giảm rũi ro và tổn thất sau thu hoạch.

Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

Hoàng Kim

GẠO THƠM ST RA THẾ GIỚI

Huỳnh Kim

Cục Sở hữu trí tuệ đã chứng nhận nhãn hiệu “Gạo thơm Sóc Trăng” từ cuối năm 2011 cho dòng sản phẩm gạo thơm mang tên ST. Người xây đắp cho thương hiệu này, kỹ sư Hồ Quang Cua, nay đang mong muốn nâng ST lên thành thương hiệu gạo Việt Nam trên thương trường thế giới.


Kỹ sư Hồ Quang Cua – Ảnh: H.Kim

Thái Lan làm được sao mình không làm?

Tốt nghiệp kỹ sư trồng trọt Trường ĐH Cần Thơ năm 1978, anh Hồ Quang Cua  trở về quê nhà Sóc Trăng, làm việc tại Phòng Nông nghiệp huyện Mỹ Xuyên, sau đó được đề bạt làm Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Sóc Trăng. Đến nay, anh đã cùng nhóm cộng sự đi qua chặng đường hơn 20 năm xây dựng thương hiệu gạo thơm ST.

Từ năm 1991, Hồ Quang Cua đã tham gia nhóm nghiên cứu của Viện Lúa ĐBSCL và ĐH Cần Thơ lo sưu tập, thử nghiệm các giống lúa thơm cổ truyền của Việt Nam, Thái Lan và Đài Loan. Được làm việc cùng các nhà khoa học đầu đàn như GS Võ Tòng Xuân, GS Nguyễn Văn Luật, rồi ra nước ngoài học, anh bắt đầu có ý tưởng làm lúa thơm cao cấp cho Việt Nam, trước hết là cho tỉnh Sóc Trăng.

Dạo đó, anh phát hiện giống lúa thơm nổi tiếng Khao Dawk Mali 105 của Thái Lan là do một cán bộ ở huyện chọn tạo; vậy mà những năm 1992 – 1997, mỗi năm Thái Lan thu gần 1 tỉ USD nhờ xuất khẩu hơn một triệu tấn gạo này. “Họ làm được sao mình lại không làm, trong khi đến cuối thế kỷ 20 mình đã xuất khẩu gạo ổn định và lo được an ninh lương thực rồi?” – Hồ Quang Cua tự vấn rồi cùng nhóm cộng sự và bà con nông dân ở huyện lao vào công việc bất kể ngày đêm. Trong bước đi đầu tiên kéo dài nhiều năm ấy, các anh đã rút ra 3 kết luận hình thành nên cây lúa thơm tương lai: 1/ Quá trình biến dị, lúa có thể cho ra giống mới có phẩm chất cao hoặc dùng làm nguồn lai tạo tiếp; 2/ Việt Nam đất chật người đông, cây lúa thơm phải là cây cải tiến có năng suất cao chứ không thể như Thái Lan, Ấn Độ sử dụng cây lúa mùa cổ truyền năng suất thấp; 3/ Phải đào tạo nhân lực để hình thành đội ngũ nghiên cứu.

Lúc đầu, ít người tán thành những nhận định mới này, nhưng rồi được Bộ Nông nghiệp và lãnh đạo tỉnh Sóc Trăng khích lệ, dần dần bảy giống lúa thơm bố mẹ được lai tạo, trong đó có gien giống Khao Dawk Mali, giống Tám Xoan ở phía bắc và giống Tào Hương của Sóc Trăng. Tới năm 2013 này, đã có 21 giống ST. Riêng ST20, cho hạt gạo thon dài, cơm mềm dẻo, thơm hương dứa và hương cốm.

Từ năm 2009, đã có gần 25.000 ha lúa thơm ST được trồng tại Sóc Trăng và hàng vạn héc ta nữa được các tỉnh ven biển khác ở ĐBSCL trồng. Ngoài việc trồng lúa hai vụ, các anh còn giúp nông dân trồng lúa thơm theo các mô hình hành tím – lúa và tôm – lúa. Ông Trà Diên ở xã Viên Bình, huyện Trần Đề, nơi đang làm 2.500 ha lúa ST5, nói: “Tôi làm 23 công cấy tầm lớn hai vụ ST5, mỗi năm lời hơn 150 triệu đồng, gấp đôi lúa IR ngày trước”. Hồ Quang Cua nói: “Các tỉnh ven biển ĐBSCL có thể trồng được vài trăm ngàn héc ta giống ST. Riêng việc trồng lúa thơm ở vuông tôm đã giúp ổn định môi trường, tái tạo sự sống trong đất, làm chậm quá trình thoái hóa đất”.

Trong đào tạo, từ cây lúa thơm ST, đã có 10 kỹ sư làm tiếp các đề tài lên thạc sĩ, riêng anh Trần Tấn Phương đã bảo vệ tiến sĩ hồi tháng 10.2011 chuyên về di truyền với đề tài “Nghiên cứu chọn tạo giống lúa thơm cao sản phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”.

ST ra thế giới, nông dân và doanh nghiệp cùng có lợi

Cuối năm 2011, đã có 5 đơn vị được Sở NN-PTNT Sóc Trăng trao quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận thương hiệu “Gạo thơm Sóc Trăng”. Đó là Công ty Gentraco ở Cần Thơ, Công ty lương thực Sóc Trăng, Công ty TNHH Thành Tín, Công ty chế biến gạo chất lượng cao Sóc Trăng và cơ sở sản xuất lúa giống và gạo thơm Mỹ Xuyên. Cũng năm đó, lần đầu tiên, Việt Nam xuất khẩu được hơn 400.000 tấn gạo thơm, chủ yếu là giống Jasmine vì giống ST chưa có nhiều, mới đủ tiêu thụ nội địa.

Tình hình này đã thôi thúc kỹ sư Hồ Quang Cua cùng các đồng sự dấn thân tiếp vào một kế hoạch mới. Họ đang làm đề án “Xây dựng liên minh nông dân và doanh nghiệp dựa trên quan hệ sản xuất mới” với mục tiêu hàng đầu là “tăng thu nhập cho nông dân”. Nông dân trồng lúa thơm ST sẽ tăng thu nhập lên tối thiểu 20% trong năm đầu tiên và tiếp tục tăng trong năm thứ 2 và năm thứ 3 nhờ nắm bắt đầy đủ kỹ thuật canh tác. Cơ sở nào để có dự án này? Anh Cua cho biết giá gạo trắng xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2013 chỉ nhỉnh hơn 400 USD/tấn dẫn tới hiệu quả sản xuất lúa gạo thấp. Trong khi đó, Công ty lương thực Sóc Trăng và Công ty TNHH Trung An ở Cần Thơ đã xuất khẩu gạo ST20 với giá 900 USD/tấn và đang thiếu hàng để bán.

Hồ Quang Cua hỏi: “Vậy ta có nắm được cơ hội này để thâm nhập sâu vào thị trường gạo cao cấp của thế giới không? Và ta có thể tổ chức sản xuất một vài chủng loại lúa đặc thù của Việt Nam, như ST, với mô hình doanh nghiệp liên kết với nông dân?”. Rồi tự trả lời: “Làm được nghĩa là chúng ta tạo được một quan hệ sản xuất mới, hữu cơ giữa nông dân và doanh nghiệp, điều mà Chính phủ vừa phê duyệt trong kế hoạch tái cơ cấu sản xuất lúa của Bộ NN-PTNT”.

Theo các tác giả dự án, gạo thơm ST20 và ST21 là gạo thơm cao cấp, rất được người tiêu dùng trung lưu thành thị ưa chuộng, bán được giá cao, nội địa bình quân 1 USD/kg, xuất khẩu tới 900 USD/tấn, như vậy là gạo Việt Nam bắt đầu cạnh tranh được với gạo thơm cao cấp của Thái Lan. Giờ  đây, nếu mô hình liên kết nông dân – doanh nghiệp được đầu tư làm bài bản ở quy mô lớn hàng ngàn héc ta ngay từ năm đầu, thì chẳng những gia tăng thu nhập ngay cho nông hộ và doanh nghiệp mà còn là mô hình để làm đúng việc liên kết bốn nhà trong cánh đồng mẫu.

“Mong ước cuối cùng của tôi là việc xác lập quan hệ sản xuất mới mang tính bền vững cho chuỗi giá trị, và gạo thơm Sóc Trăng sẽ có ngày được nâng lên thành thương hiệu gạo Việt Nam trên thương trường thế giới”, kỹ sư Hồ Quang Cua quả quyết như vậy.

Bài đã đăng trên báo Thanh Niên:
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20131007/gao-thom-st-ra-the-gioi.aspx


Vietnamese Dan Bau Music


Vietnamese food paradise
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim  Ngọc Phương Nam  Thung dung  Dạy và học  Cây Lương thực  Dạy và Học  Tình yêu cuộc sống  Kim on LinkedIn  Kim on Facebook  KimTwitter  hoangkim vietnam  Trở về đầu trang Gạo Việt chất lượng và thương hiệu  Con đường lúa gạo Việt Nam.

Myanmar đất nước chùa tháp
Posted on 16.11.2016

myanmar-dat-nuoc-chua-thapMYANMAR ĐẤT NƯỚC CHÙA THÁP

Hoàng Kim.

Tôi đến Myanmar hai lần nhưng cả hai lần đều ngắn ngủi, vì đó chỉ là sự quá cảnh Việt Nam qua Ấn Độ nên tôi dè dặt chưa dám viết gì nhiều về nơi này, ngoại trừ sự ám ảnh ấn tượng về đất nước chùa tháp và câu chuyện huyền thoại bà Aung San Suu Ky. Nói về Myanmar tôi nhớ ngay đến thầy Mai Văn Quyền, thầy Nguyễn Lân Dũng và anh Bulukhin Nguyễn Quốc Toàn, những người lưu trong tôi sự sâu đậm về đất nước kinh kim cương thừa.

myanmarThầy Quyền nghề nông của chúng tôi sang giảng dạy và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp ở Myanmar. Thầy đã mang về tặng cho tôi kỷ vật vô giá bức khảm tuyệt đẹp khu rừng thiêng dát đầy nắng vàng và cây xanh. Tôi trang trọng treo ở chốn tĩnh lặng để khi dâng hương ở bàn thờ Cha Mẹ lại thân thiết nhớ về những người thầy yêu mính trong đời mình.

ƠN THẦY

Cha ngày xưa nuôi con đi học.
Một nắng hai sương trên những luống cày.
Trán tư lự, cha thường suy nghĩ.
Phải dạy con mình như thế nào đây?

Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất.
Cái chết giằng cha ra khỏi tay con.
Mắt cha lắng bao niềm ao ước.
Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng.

Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy.
Tương lai con đi, sự nghiệp con làm.
Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ.
Cha ngã xuống rồi trao lại tay con.

Trên luống cày này, đường cày con vững.
Bởi có dáng thầy thay bóng cha xưa.
Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ.
Thôi thúc tim con học tập phút giờ …”.

(trích trong bài: Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời)

Myanmar1
Thầy Nguyễn Lân Dũng viết bài Myanmar ngày nay tổng hợp thật nhanh và thật ấn tượng về những điều kỳ diệu lạ lùng đang diễn ra ở đó.

Myanmar5
Anh Bulukhin lang thang hơn một tuần bên đó và đưa ra câu đố về bức phù điêu lạ “Vũ điệu bắn cung” do cậu con trai mang về từ Yangon.

Myanmar: Gian nan con đường dân chủ những tư liệu dưới đây giúp đúc thông tin Myanmar đất nước chùa tháp, đọc lại và suy ngẫm.

myanmar

Bài học con người và lịch sử văn hóa Myanmar, chúng ta sẽ còn nhiều lần quay lại.

Hoàng Kim

xem tiếp

MYANMAR GIAN NAN CON ĐƯỜNG DÂN CHỦ

Blog VOA 16/11/2015

Trần Vinh Dự

Mặc dù việc kiểm phiếu chưa kết thúc, nhưng câu chuyện NLD (Liên minh Dân chủ Toàn quốc) thắng cử là câu chuyện chắc chắn. Đây là một sự kiện trọng đại trong lịch sử của Myanmar, cho dù cuối cùng thì phe quân đội có để cho NLD lên cầm quyền hay không. Ít ra thì cuộc bầu cử cũng đã được diễn ra và được công nhận rộng rãi là cuộc bầu cử tự do, theo nghĩa không có những chiêu trò gian lận làm ảnh hưởng lớn đến kết quả bầu cử, và dĩ nhiên, việc đảng NLD thắng gần như tuyệt đối trên các ghế được đem ra bầu như vậy là việc quá ấn tượng.

Hai vế này cho thấy đảng USDP (Liên minh Đoàn kết và Phát triển) của phe quân đội cũng đã chơi “fair” ván bài mà họ chấp nhận chơi. Ở mặt khác nó cũng cho thấy rằng mặc cho các thành tựu gần đây mà giới lãnh đạo USDP đạt được trong lĩnh vực mở cửa và phát triển kinh tế, quần chúng Myanmar cũng vẫn kỳ vọng một sự thay đổi thực sự chứ không phải câu chuyện bình mới rượu cũ của USDP, và vì vậy họ đặt niềm tin vào NLD cũng như cá nhân bà Suu Kyi.

Chiến thắng của NLD được coi là một bước tiến về dân chủ ở Myanmar, tuy nhiên trước khi có những chuyện này, Myanmar đã có 2 nền tảng quan trọng của dân chủ. Đó là việc có nhiều đảng phái được công nhận (dù có được bầu cử dân chủ hay không), và người Myanmar cũng đã quen với văn hóa chính trị dân chủ. Sự kiện lần này đặt thêm một dấu mốc quan trọng nữa, nhưng nó không chỉ nằm ở chỗ NLD thắng, mà nó còn nằm ở chỗ USDP và lực lượng quân sự chấp nhận ván cờ bầu cử tự do, và chấp nhận kết quả của ván cờ này (ít nhất là theo những gì họ nói cho đến giờ).

Cũng có nhiều người đặt câu hỏi về việc liệu NLD có làm tốt vai trò lãnh đạo nền kinh tế. Điều này làm tôi nhớ câu nói của triết gia John Dalberg-Acton rằng “tự do không phải là phương pháp để đạt được mục tiêu chính trị tốt hơn, bản thân nó chính là mục tiêu chính trị cao nhất”. Vì thế cũng không nên đặt vấn đề là việc NLD lên cầm quyền là để phát triển kinh tế, và họ phải làm tốt hơn những gì USDP đã làm trong giai đoạn vừa qua. Thậm chí họ có thể làm tệ hơn trong một nhiệm kỳ, và có thể trong kỳ bầu cử sau họ sẽ thua, nhưng cái được là người dân Myanmar và nền chính trị đã chấp nhận sử dụng cơ chế bầu cử dân chủ để tìm ra người lãnh đạo theo ý mình. Đó mới là điều quan trọng nhất, hoặc nói như John Dalberg-Acton, đó mới là mục tiêu cao nhất.

Dân chủ hóa từ trên xuống

Những diễn biến hiện nay làm người ta dễ quên con đường đã qua. Con đường này mang nặng dấu ấn của ông Than Shwe, người đã lãnh đạo chính quyền quân sự trong gần 20 năm, sau đó thực hiện cuộc cải cách chính trị vào năm 2011 để dựng nên một chính quyền mang màu sắc dân sự do ông Thein Sein làm tổng thống, còn bản thân ông lui vào hậu trường.

Tại sao Than Shwe lại thực hiện cuộc cải cách chính trị mà dấu mốc bản lề là vào năm 2011 khi ông chính thức rút vào hậu trường? Than Shwe luôn được ghi nhận là một nhà độc tài tàn bạo và kẻ thù của tiến trình dân chủ ở Myanmar. Ông chỉ đạo hai cuộc đàn áp đẫm máu phong trào đấu tranh dân chủ, một lần vào năm 1988 và một lần vào năm 2007 (cách mạng cà sa). Vì các “thành tích” đàn áp trong suốt những năm lãnh đạo của mình, ông bị xếp hạng thứ 4 trong danh sách các nhà độc tài tệ hại nhất thế giới bởi Parade Magazine năm 2009.

Thế nhưng vào năm 2003, khi ông tròn 70 tuổi, thì chính quyền của ông đã soạn ra “lộ trình 7 bước đến dân chủ”. Năm 2008, hiến pháp mới do chính quyền của ông soạn được thông qua. Năm 2009, ông Than Shwe đã nói về cuộc bầu cử diễn ra sau đó vào năm 2010 rằng “tôi sẽ trở thành một công dân bình thường, một người bình thường, và các cộng sự của tôi cũng vậy vì chính quyền sẽ là một chính quyền dân sự”. Và ông đã làm đúng như thế, khi vào năm 2011 một chính quyền mang màu sắc dân sự được dựng lên (mặc dù họ đều từng xuất thân từ quân đội).

Nhiều người cho rằng ông Than Shwe thực hiện cuộc đổi mới chính trị là vì bị áp lực. Điều đó đúng một phần, nhưng nó khó giải thích câu chuyện ông cho soạn ra “lộ trình 7 bước đến dân chủ” từ năm 2003. Cũng khó nói tuổi tác khiến ông nghĩ lại, vì cách lãnh đạo của ông vẫn cứng rắn, thể hiện ở việc đàn áp năm 2007. Vì thế không thể nói khác được rằng cuộc đổi mới này thực sự là cuộc đổi mới từ trên xuống, từng bước, và có kế hoạch chặt chẽ.

Vai trò của ông Thein Sein cũng không hề nhỏ. Trước khi nhậm chức tổng thống, ông đã được coi là một người khá ôn hòa. Ngay sau khi trở thành tổng thống thì ông đã ngay lập tức thực hiện nhiều cuộc cải cách mạnh mẽ, trong đó có việc “thoát Trung”, điển hình là việc hủy bỏ dự án xây thủy điện Myitsone theo tiếng gọi của người dân nước ông. Ông cũng thả hàng nghìn tù nhân chính trị, bình thường hóa quan hệ với đảng NLD, làm thân với phương Tây, và hàng loạt các động thái thay đổi mạnh mẽ khác.

Ông cũng là người mà, nếu chúng ta còn nhớ, vào đầu năm 2014 lên tiếng về việc có thể thay đổi hiến pháp năm 2008, theo đó cho phép “bất cứ công dân nào” cũng có thể trở thành tổng thống. Hiến pháp 2008 được viết ra bao gồm nhiều nội dung bảo vệ cho phe quân sự, trong đó bao gồm cả một nội dung viết ra chỉ nhắm vào bà Suu Kyi, đó là cấm công dân Myanmar có thành viên trong gia đình là người quốc tịch khác trở thành tổng thống. Nó cũng quy định phe quân đội nghiễm nhiên có 25% số ghế trong Quốc hội mà không qua bầu cử, và 75% số phiếu thì không thay đổi được hiến pháp. Đó là lá chắn hiến pháp để bảo vệ phe quân đội. Phát ngôn này của ông Thein Sein, một người xuất thân từ phe quân đội, và là đương kim tổng thống, là một phát ngôn đáng kinh ngạc và thể hiện tư tưởng đặc biệt cấp tiến và thái độ thân thiện với bà Suu Kyi.

Tới lần này, ngay trước cuộc bầu cử diễn ra, ông Thein Sein cũng khẳng định sẽ chấp nhận kết quả bầu cử. Cuộc bầu cử cũng diễn ra theo cách mà ngay cả phe đối lập là đảng NLD cũng thừa nhận là tự do. Vì thế, cho đến giờ, phải thừa nhận là ông Thein Sein đóng vai trò rất quan trọng.

Vai trò tiếp diễn của quân đội trong nền chính trị

Nhiều người đang đặt dấu hỏi liệu phe quân đội sẽ làm gì tiếp theo. Nghi ngờ là có cơ sở vì ít nhất vào năm 1988 họ cũng đã sổ toẹt kết quả cuộc bầu cử dân chủ thời đó. Tuy nhiên, lần này, có ít lý do để tin chuyện tương tự sẽ lặp lại.  Khả năng lớn là ông Thein Sein sẽ rời nhiệm sở và ông có quyền rời nhiệm sở trong thế ngẩng cao đầu. Thế nhưng sau đó việc quân đội có để yên cho NLD lãnh đạo đất nước trong nhiệm kỳ này không thì vẫn là một câu hỏi mở.

Ai cũng biết phe quân đội nắm tối thiểu 25% số phiếu, và với 75% số phiếu thì không thay đổi được hiến pháp. Với hiến pháp hiện tại thì thứ nhất là bà Suu Kyi không thể làm tổng thống bởi một quy định trong hiến pháp mà phe quân đội đặt ra chỉ để áp dụng cho trường hợp của bà, và thứ 2 là 3 bộ cực kỳ quan trọng đối với sự ổn định của nền chính trị Myanmar đều nằm trong tay quân đội – bộ quốc phòng, nội vụ, và biên giới.

Vì thế vai trò của quân đội vẫn hết sức trọng yếu trong nền chính trị Myanmar, và dĩ nhiên bà Suu Kyi cũng như NLD không ảo tưởng gì về chuyện này. Để giữ được ổn định và phát triển, họ phải tìm kiếm sự đồng thuận từ quân đội. Điều này làm cho nền chính trị Myanmar sẽ còn tiếp tục ở trạng thái bấp bênh trong một thời gian dài. Có nhiều người cho rằng nếu cuộc chuyển giao quyền lực thuận buồm xuôi gió, quân đội Myanmar sẽ dần trở thành lực lượng chính trị giống như vai trò của quân đội Thái Lan trong nền chính trị nước này, tức là họ sẽ đứng một bên để yên cho chính phủ làm, nhưng sẵn sàng “can thiệp” trong những giai đoạn họ cho là “khủng hoảng”.

Điều này nếu thành công thì, xét cho cùng, sẽ là một kỳ tích và một bài học mới về chuyển đổi chế độ trên thế giới. Từ một nền độc tài bị cả thế giới lên án sang một nền dân chủ tự do và pháp quyền mà không phải trải qua các cuộc cách mạng đẫm máu như chúng ta đã nhìn thấy ở nhiều nơi trên thế giới.

Những thách thức lớn của NLD và Aung San Suu Kyi

Có 4 thách thức rất lớn. Thứ nhất, việc bà Suu Kyi không thể làm tổng thống tạo ra những phức tạp không hề nhỏ. Dù một đại diện khác của NLD lên làm tổng thống, và theo ý muốn của bà Suu Kyi, người đó chỉ là bù nhìn và bà sẽ là người ngồi “trên tổng thống”, thì điều đó cũng không dễ dàng. Nó có thể tạo ra xung đột ngay trong chính nội bộ đảng NLD. Không ai muốn mình là bù nhìn cả, nhất là về mặt pháp luật không quy định như vậy.

Thứ hai là cái bóng của bà Suu Kyi quá lớn và bà năm nay đã 70 tuổi. Cái bóng quá lớn của bà cũng khiến cho các tài năng chính trị khác của NLD bị lu mờ. Nếu có bất kỳ chuyện gì xảy ra với bà liên quan đến sức khỏe thì đó sẽ là một tổn thất cực kỳ lớn của NLD. Và con người thì không ai bất tử. Bà Suu Kyi và đảng NLD chắc chắn sẽ phải có kế hoạch thật tốt liên quan đến chuyện chuẩn bị nhân sự thế hệ kế tiếp.

Thứ ba là là câu chuyện phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Rất nhanh thôi sau khi cầm quyền, hào quang có được trong giai đoạn đấu tranh dân chủ sẽ phải nhường chỗ cho việc chứng minh các thành tựu từ việc quản lý có hiệu quả nền kinh tế và xã hội nếu NLD muốn tiếp tục cầm quyền. Điều này nói thẳng ra là không dễ dàng. Lech Walesa, nhà dân chủ lỗi lạc của Ba Lan (người cũng được nhận giải Nobel Hòa Bình vào năm 1983), chẳng hạn, chỉ trụ được ở vai trò tổng thống có đúng một nhiệm kỳ, sau đó cũng thua cuộc trong một cuộc bầu cử tự do.

Thứ tư là NLD sẽ liên tục phải tìm kiếm sự đồng thuận từ quân đội nếu muốn duy trì sự ổn định và phát triển. Dĩ nhiên các cuộc mặc cả liên tục này sẽ không dễ dàng.

Chính trị thực dụng và câu chuyện thoát Trung

Dưới thời của tổng thống Thein Sein, Myanmar đã thực hiện một cuộc chuyển đổi ngoạn mục về đường lối ngoại giao. Nó được kích hoạt vào đúng lúc nước Mỹ xoay trục về chiến lược ngoại giao và hướng sang châu Á. Vì thế nó được phương Tây, nhất là Mỹ, ủng hộ mạnh mẽ. Nó giúp USDP, một đảng do phe quân sự lập ra, nhanh chóng lấy được vị thế và uy tín đối với phương Tây, cũng như sự hậu thuẫn cần thiết của phương Tây để thực hiện cuộc chuyển đổi mềm về mô hình chính trị.

Đó là chưa kể nó giúp Myanmar thoát khỏi một số phận bi thảm của một thuộc quốc (vassal state) của Trung Quốc. Chưa có quốc gia nào giàu mạnh lên được với số phận thuộc quốc của đế quốc này. Có lẽ lựa chọn của Myanmar cũng là bài học tốt cho một vài nước Đông Nam Á có vẻ như đang vì vài mối lợi ích trước mắt mà Trung Quốc bố thí mà tạm thời đánh mất mình như Campuchia chẳng hạn.

Vì thế, một điểm mà chắc chắn giới quan sát và lãnh đạo các nước có lợi ích liên quan mật thiết với Myanmar sẽ quan tâm là, dưới sự dẫn dắt của bà Suu Kyi và NLD, Myanmar sẽ thực hành một nền chính trị thực dụng như thế nào, và câu chuyện quan hệ của họ với Trung Quốc sẽ ra sao. Bà Suu Kyi đang tỏ ra nóng lòng để thực hiện vai trò lãnh đạo, và chắc chắn, bà sẽ muốn tạo ra một con đường riêng chứ không đơn giản là thực hiện tiếp những gì mà ông Thein Sein đang làm dang dở.

*Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Trần Vinh Dự

Trần Vinh Dự chuyên nghiên cứu, tư vấn, và viết về các vấn đề kinh tế của Việt Nam, Hoa Kỳ và thế giới. Ngoài lĩnh vực sở trường này, ông cũng thường xuyên viết về các vấn đề quan hệ quốc tế liên quan tới Á Châu. Trần Vinh Dự tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại Đại học tổng hợp Texas ở Austin, làm chuyên gia tư vấn kinh tế cho tập đoàn ERS Group Inc., đồng sáng lập và là cố vấn cho Quỹ nghiên cứu Biển Đông.

Myanmar

MYANMAR NGÀY NAY

Blog Nguyễn Lân Dũng

Nhờ có Vietnam Airline mà càng ngày càng có nhiều người Việt Nam có thể bay từ Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh sang Myamar để du lịch hoặc tìm cơ hội hợp tác kinh tế. Năm 1989, hội đồng quân sự đổi tên tiếng Anh từ Burma thành Myanmar, tên của thủ đô đổi từ Rangoon thành Yangon. Myanmar là tên quốc gia, trong khi Bama (Burma lấy nguồn gốc từ đây) là tên gọi thông tục. Nhiều nhóm người Myanmar tiếp tục sử dụng tên “Burma” vì họ không chấp nhận tính hợp pháp của chính quyền quân sự cũng như sự đổi tên đất nước. Một vài chính phủ phương tây, chẳng hạn Hoa Kỳ, Australia, Ireland và Anh tiếp tục sử dụng tên “Burma”, trong khi Liên minh châu Âu sử dụng cả hai. Liên Hợp Quốc sử dụng tên “Myanmarr”.

Myanmar có diện tích lớn hơn nước ta nhiều (676 577 km2). Nước này có 5.876 km đường biên giới với Trung Quốc (2.185 km), Thái Lan (1.800 km), Ấn Độ (1.463 km), Lào (235 km) và Bangladesh (193 km). Đường bờ biển dài 1.930 km. Tính theo chiều dài bắc-nam thì dài tới 2090 km, bề ngang chỗ rộng nhất là 925 km. Tuy nhiên dân số ít hơn nước ta khá nhiều, theo thống kê vào tháng 7-2010 thì dân số nước này là 59,1 triệu người, mật độ bình quân chỉ có 87 người km2. Khi máy bay sắp hạ cánh xuống sân bay quốc tế của Thủ đô Yagon thì nhìn xuống chỉ thấy đồng ruộng mênh mông, không thấy một nhà cửa, xóm làng gì cả.
Sự đa dạng chủng tộc dân cư ở Myanmar (135 sắc tộc khác nhau) đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chính trị, lịch sử và nhân khẩu học của quốc gia này . Người Miên (Burma) chiếm tới 68%, dân tộc Shan (9%), Karren (8%), Rakhine (4%), các dân tộc còn lại không quá 4%. Có tới 89% người Myanmar theo Phật giáo (Thiên chúa giáo-5,6%; Hồi giáo- 3,8%; Hinđu giáo- 0,5%…).
Phật giáo được coi như quốc đạo với 500 000 tăng ni và hầu hết mọi người trong đời mình phải qua nhà chùa rèn luyện không dưới 3 năm (!). Họ theo giáo phái Nam Tông như Ấn Độ, chứ không phải Bắc Tông như Trung Quốc. Người ta gọi Myanmar là “đất nước chùa tháp” vì có tói hàng vạn đền chùa lớn nhỏ nằm trên khắp đất nước.

Vì điều kiện công tác chúng tôi chỉ có thể ghé thăm một số chùa nổi tiếng. Chùa vàng Swedagon có lẽ là rộng lớn nhất và đẹp đẽ nhất vì phủ bằng bàng thật. Các bạn nói tháp lớn nhất lắp bằng vàng khối chứ không phải chỉ mạ vàng. Người đông như hội, vào chùa đều phải đi đất, không được đốt một chút vàng mã nào (!). Họ đến bằng lòng thành kính và cầu mong mọi sự yên bình chứ không phải để cầu xin, tiền tài, bổng lộc. Trên tay họ chỉ có vài bông hoa , một chuỗi hoa hay một nén hương mà thôi. Tất cả đều yên lặng, thành kính và nhiều người mang theo cơm hộp để ở cà ngày trong đền.

Bạn kể chuyện cơn siêu bão Nargis đã tàn phá Myanmar khiến trên 100 000 người chết. Chùa Swedgon bị vỡ từng khối vàng lớn nhưng người dân dã thu gom lại để tái thiết chùa mà không thiếu một chút vàng nào (!)Hàng vạn cây cổ thụ bị đốn ngã, bạn đã tận dụng để tạo ra các bức tượng bằng gỗ quý có giá trị nghệ thuật rất cao

Chúng tôi được bạn đưa đi thăm bằng thuyền đến một ngôi chủa rất lớn ở giữa sông. Mọi người mua bỏng ném xuống sông và hàng đoàn cá nổi lên nuốt chửng những nắm bỏng lớn, trông thật vui mắt.

Chúng tôi còn đi thăm nhiều ngôi đền khác nữa mà không kịp nhớ nổi tên. Đặc biệt được đến thăm những con voi trắng mà người dân Myanmar vô cùng sùng bái.

Ấn tượng sâu sắc nhất đối với chúng tôi là người Myanmar trông ai cũng hiền lành, thánh thiện, Không có trộm cắp, đĩ điếm, cờ bạc, cãi cọ, đâm chém, cướp bóc, nghiện hút ( trừ Khu tám giác vàng quá đặc biệt ở biên giới ba nước mà chua có cách gì triệt phá nổi).., Từ sau khi tháo gỡ một phần cấm vận , xe hơi cũ đã được thay gần hết bằng xe hơi đời mới. Không có một chiếc xe máy trên đường phố, nhưng có những xe đạp cải tiến chở được hai khách ngồi quay lưng lại nhau trong một thùng bên cạnh, Xe máy có che ô chở được hai hành khách ngồi trên một ghế lắp phía sau xe.

Người Myanmar không ăn thịt chó nên rất nhiều chó trên đường phố, Đặc biệt là không thấy con nào sủa hoặc dữ tợn. Quạ và chim bổ câu bay khắp nơi- chứng tỏ môi trường thiên nhiên còn rất trong sạch. Đồng bằng Ayeyarwady, diện tích gần 50.400 km², phần lớn để canh tác lúa gạo. Vậy mà Myanmar không xuất khẩu được lúa gạo, vì mỗi năm chỉ làm có một vụ. Công việc thủy lợi không phát triển và hiện nay mới đang nhờ Việt Nam giúp đỡ. Nông dân Myanmar ưa một cuộc sống rất thanh đạm, không có ý định làm giàu và họ coi cuộc sống sau khi chết quan trọng hơn đời sống thực trên trần thế.
Việt Nam có rất nhiều cơ hội để hợp tác phát triển nông lâm thủy sản với Myanmar. Độ tăng trưởng kinh tế chậm của Myanmar góp phần giữ gìn môi trường và các hệ sinh thái. Rừng, gồm rừng nhiệt đới với loại gỗ tếch có giá trị kinh tế cao ở vùng hạ Myanmar, bao phủ 49% diện tích đất nướ. Các loại cây khác mọc ở vùng này gồm cao su, keo, tre, lim, đước, dừa, cọ… Trên những cao nguyên phía bắc có sồi, thông, và nhiều giống đỗ quyên khác nhau bao phủ đa phần diện tích. Những vùng đất dọc bờ biển có nhiều cây ăn quả nhiệt đới. Tại Vùng khô, thực vật thưa thớt và còi cọc hơn. Có nhiều loài động vật rừng rậm tiêu biểu, đặc biệt hổ và báo có nhiều tại Myanmar. Ở vùng Thượng Myanmar, có tê giác, trâu rừng, lợn lòi, hươu, linh dương và voi nhà… Các loài động vật có vú nhỏ hơn cũng rất nhiều – vượn, khỉ , cáo bay, heo vòi… Đáng chú ý là sự đa dạng về các loài chim với hơn 800 loài (vẹt, peafowl, gà lôi, quạ, diệc và gõ kiến..). Trong số các loài bò sát có cá sấu, tắc kè, rắn mang bành, trăn , rùa… Hàng trăm loài cá nước ngọt là nguồn thực phẩm quan trọng. Năm 1994, đất canh tácchiếm 15,3% (chỉ mới 2% có tưới tiêu), đồng cỏ 0,5%, rừng và cây bụi 49,3%, các đất khác 34,9%. Khoáng sản chính: dầu khí, thiếc, kẽm, antimon, đồng, vonfram, chì, than, đá quý…. Mức sống của người Myamar rất chênh lệch so với nhau. Một số nhỏ rất giàu có họ đến với các siêu thị lớn, hết sức hoành tráng, đi xe đời mới nhất và sở hữu những tài sản kếch xù. Còn phần lớn dân cư an phận sống cuộc đời rất thanh bạch nhưng lại cảm thấy thỏa mãn (!). Đó có phần tốt nhưng cũng là sức cản cho sự phát triển kinh tế của đất nước.

Myanmar là một trong những quốc gia có quan hệ ngoại giao sớm nhất với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thời kháng chiến chóng thực dân Pháp Myanamar là cửa ngõ giúp ta liên hệ với thế giới bên ngoài. Đầu thập niên 1950 Myanmar đã mua vũ khí từ Ấn Độ chuyển qua Lào để sang giúp quân đội ta, Cơ quan đại diện Chính phủ VNDCCH tai Rangoon được thành lập từ tháng 1-1948. Sau 1954 Myanmar giữ lập trường trung lập và có Tổng lãnh sự quán ở cả hai mièn Nam Bắc.Tháng 11-1954 Thủ tướng U Nu và Hồ Chủ tịch ký tuyên bố chung ghi nhận”năm nguyên tắc chung sống hòa bình”. Tháng 2-1958 Hồ Chủ tịch sang thăm chính thức Myanmar. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã hai lần Chính phủ Myanmar ra tuyên bố phản đối Mỹ ném bom miền Bắc và giải dioxin ở miền Nam. Sau ngày Việt Nam thống nhất đất nước, Myanmar thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ với Việt Nam từ ngày 25 tháng 5 năm 1975. Tháng 5-1994 Thủ tướng Võ văn Kiệt thăm Myanmar và hai bên ký kết 3 Hiệp định (thương mại, du lịch và thành lập UB hỗn hợp). Sau đó là các chuyến viếng thăm hữu nghị của các Thủ tướng Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch nước Trần Đức Lương cùng với các cuộc viếng thăm Việt Nam của các Tướng Myanmar. Tuyên bố chung ngày 2-4-2010 đã khẳng định việc gia tăng hợp tác trong 12 lĩnh vực kinh tế. Đến tháng 7-2010 Việt Nam là bạn hàng xuất nhập khẩu thứ 10 của Myanmar, và là bạn hàng xuất nhập khẩu thứ 4 của Myanmar trong ASEAN. Tính đến hêt năm 2010 các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều dự án với vốn đăng ký tới gần 1 tỷ USD. Các doanh nghiệp đã có mặt sớm tại Myanmar là VNA, VIETTEL, PETROVIETNAM, BIDV. Hoàng Anh Gia Lai, TCT Sông Đà, TCT tôn Hoa Sen. TCT sữa quốc tế, TCT Điện lực, VIGLACERA, VIETRANIMEX….
Ngày 7-11-2010 đã có 29 triệu cử tri đi bầu cử Quốc hội (sau 20 năm kể từ 1990) để thành lập Chính phủ dân sự mới. Đầu tháng 2/2011,Quốc hội Myanmar đã bầu Thủ tướng mãn nhiệm trước đây – ông Thein Sein- làm Tổng thống dân sự đầu tiên sau gần 50 năm cầm quyền của quân đội. Chính phủ quân sự Than Shwe đã chuyển giao quyền lục êm thấm cho Chính phủ dân sự Thein Sein và một trang lịch sử mới đã mở ra trên đất nước này. Bà Aung San Suu Kyi ( sinh ngày 19-6-1945) Yagon. Trong những năm 1988-1995 bà hoạt động đòi tự do nhân quyền cho Myanma và bị chính quyền Myanma giam lỏng.Năm 1990, bà được trao Giải tưởng niệm Thorolf Rafto. Bà được tặng giải Nobel Hòa bình năm 1991. Tháng 9 năm 2006, theo bình chọn của tạp chí Forbes, Aung San Suu Kyi ở vị trí thứ 47 trong số 100 phụ nữ quyền lực nhất thế giới. Năm 2011 bà được trao Huy chương Wallenberg. Hiện nay bà là hội viên danh dự của Câu lạc bộ Madrid. Năm 2012 bà được bầu làm nghị sỹ quốc hội của Myanma. Ngày 16/6/2012, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình đã tổ chức đón tiếp bà Suu Kyi, người đoạt giải Nobel Hòa Bình năm 1991. Buỗi lễ với sự hiện diện của vua Harald, hoàng hậu Sonja, thái tử Haakon, thủ tướng Jens Stoltenberg, Chủ tịch Quốc hội Dag T. Andersen, và lãnh đạo các chính đảng của Nauy. Chủ tịch Ủy Ban, ông Thorbjørn Jagland đọc diễn văn chào đón Aung San Suu Kyi. Diễn văn nhấn mạnh gương tranh đấu của Aung San Suu Kyi đã mang lại hi vọng cho thế giới. Chế độ quân phiệt càng quản chế và cô lập mạnh bao nhiêu, tiếng nói của bà càng rõ hơn. Lý tưởng và sự tranh đấu kiên trì của bà đã động viên được người dân Miến và chiến thắng được chế độ quân phiệt. Tự do và dân chủ không do nhà cầm quyền hay luật pháp ban phát. Những giá trị cao quý đó phải do tranh đấu bền bỉ mà có.

Thành quả tranh đấu của Aung San Suu Ky mang một thông điệp: chế độ độc tài có tất cả mọi thứ trong tay nhưng họ rất sợ dân chủ và trước sau cũng sụp đổ.

Nguyễn Lân Dũng
sinh năm 1938 là một giáo sưtiến sĩ sinh học, Nhà giáo Nhân dân của Việt Nam [1]. Công tác chính của ông là giảng dạy và nghiên cứu tại Viện vi sinh vật và Công nghệ sinh học thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. (Wikipedia)

MỘT LẦN TỚI MIẾN ĐIỆN

Bulukhin

Bu thích gọi Myanma là Miến Điện vì nghe nó thâm u, kì bí, phù hợp với những thông tin về đất nước này bao giờ cũng trái chiều, gây tò mò, thắc mắc.  Có người bảo Miến Điện tương đương Việt Nam 35 năm trước (khoảng 1976) tức là lúc dân ta còn nhai hạt bo bo thay gạo, mọi hàng hóa trên đời phải mua bằng tem phiếu.  Mấy chú bộ đội trong nam về bắc còn tòng teng cái khung xe đạp và con búp bê nhựa sau ba lô… Tờ thông báo du lịch Miến Điện của Ami tour nhắc nhỡ quý khách có thể mang theo mỳ gói hoặc mắm ruốc đề phòng ăn không hợp khẩu vị.  Ở Răng Gun 19 giờ là đóng cửa, quý khách không nên ra ngoài một mình…Bởi vậy khi máy bay tiếp đất Răng Gun, Bu tui trong bụng không yên… Càng thêm sợ khi làm thủ tục nhập cảnh thấy nhà ga tối om, cúp điện! Đến hồi máy nổ chạy lên thì ơ kìa,  nhà ga họ lộng lẫy không kém chi Nội Bài và Tân Sơn Nhất, chưa nói là hơn. Riêng tấm thảm hoa ở phòng đợi dài 110 mét, rộng 11 mét tuyệt đẹp ( không có chỗ nối)  đã làm các vị Việt Nam thầm phục. Các sân bay xứ mình không nói làm gì, phòng đợi ở sân bay Bangkok (cách nay 10 năm) ở sân bay Bắc Kinh, Thượng Hải cách nay 5 năm bu tui chưa  thấy tấm thảm lót nền sang trọng thế.

Bữa ăn tối đầu tiến đến Răng gun ở nhà hàng  Bangkok Kitchen tuyệt ngon.  Chỉ riêng mấy loại nước chấm, các bà nội trợ khó tính Hà Nội đã khen rối rít. Bốn ngày, bốn bữa ăn sáng, tám bữa ăn chính chưa thấy vị  khách Việt Nam nào kêu không hợp khẩu vị.   Ngủ đêm ở khách  sạn Royal Park 4 sao  sang trọng và tiện nghi.

19 gìờ đèn điện ngoài phố sáng trưng, xe tắc xi mời đi dạo phố, không dám đi vì ngôn ngữ bất đồng, với lại xe họ không có đồng hồ đếm cây số, chỉ áng chừng để tính tiền. Cả thành phố chưa thấy cây xăng nào, nghe bảo các chỗ đổ xăng người ta xếp thùng, phuy, cao lêu nghêu, người bán đong từng xô đổ vào ô tô, bên cạnh đó có nơi nhà hàng ăn uống vẫn lửa đỏ từng bừng.

Vài ấn tượng đầu tiên khi đặt chân đến Răng Gun bạn đọc tạm, Bu còn viết tiếp.

NGÀ

6 giờ sáng ngày đầu tiên ở Răng gun bu rủ một anh bạn xách máy ảnh đi dạo phố coi thử cảnh vật xứ người ra sao. Quái lạ, trời sáng trưng rồi mà sao phố xá vẫn đóng im ỉm? Hoá ra, với người Miến lúc đó mới 5 giờ 30. Giờ họ chậm hơn giờ mình nửa tiếng. Định về lại khách sạn thì thấy một anh Miến đạp chiếc xe đi ngược chiều. Nói đạp xe nhưng chiếc xe ấy không hẳn là xe đạp, mà là một thứ “xi đờ ca” chạy bằng cơ bắp. Ngoài phần xe đạp thông thường ra, người ta gắn vào (bên phải người lái) một cái thùng để chở khách. Bu ra hiệu dừng xe và chễm chệ ngồi vào thùng. Anh chàng Miến khom lưng, guồng chân, nói một tràng líu ríu, chằc là hỏi “ông đi đâu”. Xe lăn bánh được một đoạn, bu ra hiệu dừng xe, đưa cho anh lái một đô la, nhảy vội xuống đất. Anh chàng kia không ra mừng, không ra ngạc nhiên, đạp xe đi, ngoái lại nói một tràng líu ríu, có thể là cảm ơn, cũng có thể bảo chụp hình cả người lẩn xe người ta mà trả có một đô, đồ keo kiệt! Hehehe.

Có anh đi Miến Điện về viết như đinh đóng cột lên mạng, con gái Miến ra đường trang điểm bằng vôi bột xoa lên má. Khiếp! vôi bột mà xoa lên má thì bỏng da, hỏi còn gì là má nữa. Ấy thế mà các cô rao bán hàng lưu niệm ở nơi đông khách du lịch hai má cứ trắng xóa như hề tuồng. Chả nhẽ da mặt mấy em Miến này chịu được vôi bột? Cho đến khi vào khách sạn Kyaik Hto (trên đỉnh núi cao 1200m so với mặt biển) mới biết thứ bột trắng ấy được mài từ thân cây thanaka (chỉ có ở Miến Điện). Khúc gỗ thanaka bằng cái cốc vại mài lên đá với nước lả. Dung dịch thu được trắng đục như sữa, xoa lên da chống được tia tử ngoại mặt trời và làm trắng da. Khổ! Nào có thấy em nào trắng, em nào em nấy da dẽ cứ như đồng điếu đấy thôi.

Trong số những vật phẩm bu tui mang về tặng bà xã có một phiến gỗ thanaka và một cái đĩa đá mài hình tròn. Sau khi nghe bu thuyết trình về công dụng trang điểm của nó, bà xã nguýt dài: Ôi dào, trang với chả điểm kiểu này thì có mà dở hơi. Hihihi!!

Theo các nhà Trầu Học thì tập tục ăn trầu phổ biến ở vùng nhiệt đới châu Á và châu Đại Dương. Quốc đảo Đài Loan khoảng 25 triệu dân mà có tới 20% dân số ăn trầu. Cả nước mỗi năm chi ra 3 tỷ USD để nhai nhai, nhả nhả, một thứ chẳng ngon lành béo bổ gì. Thế nhưng đứng đầu thế giới về vụ ăn trầu phảỉ là dân Miến Điện. Những ai đi Miến về đều nói thế, và bu tui loanh quanh nước Miến 5 ngày cũng thấy thế. Từ nông thôn cho chí thành thị, hang cùng ngõ hẽm nào cũng có người bán trầu, gặp 10 người thì đã có tới 4, 5 người nhai trầu bỏm bẻm.

Cách tiếp thị trầu của người Miến khác xa người Đài Loan. Các em “Tây Thi bán trầu hút khách” xứ Đài có chiêu câu khách ngoạn mục: Áo mỏng liền váy ngắn, cúc cài chiếu lệ, “quên” mặc nội y, anh nào mua đủ 100 Đài tệ trầu cau thì em cho xem luôn vòng 1 !

Hehehe…. P/S Đoạn nói về “Tây Thi bán trầu hút khách” và tấm hình minh hoạ dưới đây bu dẫn theo tác giả Thu Hà trên báo điện tử Vietnamnet.

Người Miến không thế, trầu bày ra đấy, ai cần thì mua không thì thôi, chẳng đon đả mời chào, không nói lời đưa đẩy. Như anh chàng đen nhẻm dưới đây, đã không mời thì chớ, còn trừng trừng nhìn khách, thượng đế nào yếu bóng vía có khi phải co giò …chạy.Nhìn vào quầy bán trầu (ảnh dưới) của anh chàng này chỉ thấy trầu không , vôi, một hộp không nắp đựng vai (từ cây gỗ gì đó đẽo ra) còn 7 hộp khác đựng gì thì có trời biết nỗi. Bu đoán mò: Cau khô, vỏ chay, vỏ quạch, vỏ trầm, rễ sen, là những thứ người ăn trầu nói chung vẫn dùng. Có thể có thêm đinh hương và đậu khấu là hai món người Miến khoái xài như các nhà Trầu Học nói tới.Bàn dân thiên hạ ăn trầu thì không nói làm gì, đằng này chú cảnh sát giao thông cũng ăn trầu khi đang thi hành công vụ (ảnh dưới). Tay phải chú cầm roi (điện ?), tay trái cầm bộ đàm. Đang tả xung hữu đột điều khiển người đi đường thì bổng chú ta dừng lại, nhổ toẹt bả trầu xuống đường. Nhè lúc này bu giơ máy ảnh lên, chú ta quay tít cây roi (điện?) và hô to: No photo. No photo!! Bu đành rút êm nhưng vẫn ghi nhanh được cảnh chú vào quán trầu mua tiếp 5 miếng, cho vào bao ni lông, đút túi quần để dành ăn tiếp…

Người Việt ta ăn trầu chưa đến mức nổi tiếng thế giới, nhưng đã có một nềnVăn Hoá Trầu mang bản sắc Việt rất độc đáo, với sự tích trầu cau bi thương và cảm động, với tâm sự của dân gian: Miếng trầu là đầu câu chuyện. Thương nhau cau sáu bửa ba, ghét nau cau sáu bửa ra làm mười. Rồi những nhà thơ viết về trầu: Xóm làng đã đỏ đèn đâu, chờ em ăn giập miếng giầu em sang (Nguyễn Bính). Các cụ ông say thuốc, các cụ bà say giầu, còn con trai con gái. chỉ nhìn mà say nhau (tác giả ?). Vậy thì xài trầu tầm cỡ nước Miến Điện hẳn phải có một nền Văn Hoá Trầu cực kì phong phú không kém gì người Việt, chưa nói là hơn . Hiềm nỗi chính phủ nước này chủ trương bế quan toả cảng, các nhà báo, nhà nghiên cứu không được tự do vào đó hành nghề. Văn học dân gian Miến chưa có ai dịch thuật giới thiệu. Bu tui được cái văn dốt võ dát, ở Miến có 5 ngày, chỉ nói được vài dòng chung chung, cốt mua vui cho bạn bè vậy, hehehe..

*

Bài viết “MỘT LẦN ĐẾN MIẾN ĐIỆN” trên đây, Bu nói những điều mắt thấy tai nghe ở cái xứ sở khuất nẻo và huyền bí. Có thể bạn sẽ hỏi: Tại sao Miến Điện rộng gấp đôi nước Việt, đất đai màu mỡ, tài nguyên dồi dào, dân số chỉ hơn nửa Việt Nam, có một quá khứ vàng son làm thế giới nể phục, lại nghèo nàn chậm tiến hơn nhiều nước Đông Nam Á. Anh Cô Cô người Miến hướng dẫn viên du lịch đã trả lời câu hỏi đó không chút dè dặt:  “Thể chế chính trị Miến Điện nhiều năm do quân đội nắm giữ, họ dựa vào súng đạn, đàn áp nhiều cuộc nổi dậy đòi tự do và dân chủ của dân chúng và tăng lữ, đẩy Miến Điện một thời thịnh vượng trở thành một nước nghèo nàn, xứ sở của sự sợ hãi…”

Ngày 4 tháng 1 năm 1948 Miến Điện thoát khỏi ách nô dịch thực dân Anh trở thành nước cộng hòa độc lập với tên gọi Liên bang Myanma do Sao Shwe Thaik làm tổng thống và Unu làm thủ tướng. Dẫu sao thì chính phủ Unu cũng còn được gọi là dân chủ. Nhưng đến 1962 tướng Ne Win đảo chính quân sự và lên nắm quyền suốt 26 năm liền. Ông này theo đuổi chính sách Xã hội chủ nghĩa, thân cộng sản, lấy quốc hiệu Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Myanma. Đứng đầu phe cộng sản thời bấy giờ là Liên xô và Tàu đang coi nhau như “kẻ thù số một”. Mao Trạch Đông chống Liên Xô do việc Khơ rút sốp hạ bệ thần tượng Sta lin. Bản thân Mao đưa ra chính sách Đại nhảy vọt, chỉ trong ba năm làm chết đói 37,55 triệu người, mười năm Đại cách mạng Văn hóa chết thêm 20 triệu, tổng cộng 57,55 triệu, 100 triệu người bị đấu tố (trang 243, sách Mao Trạch Đông ngàn năm công tội của giáo sư Tân Tử Lăng, Thông tấn xã Việt Nam xuất bản).

Thể chế XHCN của Ne Win thân cộng ngày càng mất lòng dân. Chính vì thế năm 1974 nhân đám tang của U Than (Tổng thư kí Liên hợp quốc người Miến Điện) một cuộc biểu tình lớn đã xẩy ra, quân đội nổ súng đàn áp, máu người đổ đầy đường. Năm 1988 tướng Saw Maung làm đảo chính buộc Ne Win từ chức, lập nên Hội đồng Khôi phục trật tự và luật pháp Liên bang (SLORC). Hội đồng này lãnh đạo kinh tế yếu kém, thẳng tay đàn áp các phong trào đòi dân chủ, phản đối áp bức chính trị, dẫn đến cuộc nổi dậy 8888 (ngày 8 tháng 8 năm 1988), và bị quân đội đàn áp dã man, làm chết 3000 người (theo Trần Viết Đại Hưng, Email: [email protected]).

Tuy nhiên cuộc biểu tình 8888 đã dọn đường cho bầu cử Quốc hội Nhân dân năm 1990. Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD) do bà Aung San Suu kyi lãnh đạo thắng hơn 60% số phiếu và chiếm 80% ghế trong Quốc hội. Nhân dân Miến Điện hy vọng có sự đổi đời . Nhưng chính quyền quân sự đã thẳng thừng bác bỏ kết quả bầu cử, không những không trao quyền lực cho (NLD) mà còn giam cầm, quản thúc bà Suu kyi tổng cộng 15 năm ( trong số 21 năm từ 1990 đến 2011). Chủ trì việc loại bỏ NLD là thống tướng Than Xuề lúc bấy giờ giữ chức phó tổng chỉ huy lực lượng vũ trang, kiêm phó chủ tịch Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật pháp Liên bang (SLORC). Tháng 3 năm 1992 Than Xuề làm bộ trưởng bộ quốc phòng , tháng 4 năm đó giữ chức chủ tịch (SLORC) tiếp theo làm thủ tướng.

Việc loại bỏ NLD trong bầu cử 1990 và chính sách đàn áp dân chúng của Than Xuề làm nhiều nước như Ái Nhĩ Lan, Anh quốc, Áo, Ấn Độ, Bỉ, Đức, Hoa Kì, Ca na đa, Na Uy, Hàn quốc, Pháp, Tân Tây Lan, Singgapo, Thái Lan, Tây Ban Nha, Úc…đã có các cuộc biểu tình chống chính quyền quân phiệt Miến Điện. Liên Hiệp Quốc, trực tiếp can thiệp bằng ngoại giao. Hội đồng Bảo an LHQ cử đặc sứ Ibrahim Gambari đến Miến Điện cùng với các nước Đông Nam Á làm áp lực đòi chính phủ quân sự phải đối thoại với thủ lãnh đối lập – bà Aung San Suu Ky.

Mỹ và EU đưa ra nhiều biện pháp trừng phạt kinh tế như cấm nhập hàng hóa Miến Điện, hạn chế đầu tư… Nền kinh tế Miến do vậy gặp rất nhiều khó khăn. Có gần 2 triệu người Miến Điện sang lao động kiếm sống ở Thái Lan. Jackie, điều phối viên của MAP cho biết lao động nhập cư phải làm việc quá giờ và được trả lương thấp, thậm chí thấp hơn mức tối thiểu mà chính phủ Thái đưa ra. Họ không có quyền thành lập công đoàn và gặp rào cản về ngôn ngữ. Tính ra người lao động Miến Điện ở Thái thu nhập khoảng 3000 baht (1,2 triệu VNĐ)/ tháng. Con số đó còn cao gấp đôi những người lao động ở chính quốc. Tại các thị trấn giáp biên về phía nam quán karaoke và nhà thổ nhiều gấp đôi nhà hàng và quán rượu, tệ nạn xã hội vượt tầm kiểm soát của chính quyền sở tại. Một sự thực hiển nhiên, khi còn là thuộc địa Anh (1948 trở về trước) xuất khẩu gạo của Miến Điện đứng đầu thế giới. Đến năm 2011 dự kiến xuất khẩu 1,5 triệu tấn, chỉ bằng 1/5 số gạo xuất của Việt Nam. Ở SEA Games (1965-1973) đội tuyển bóng đá quốc gia Miến Điện 5 lần liền giành cúp vô địch, từ đó đến nay trên bảng xếp hạng chỉ là con số không.

Trước áp lực của  Liên Hợp quốc, Hoa kỳ, EU, khối ASEAN và nhiều nước trên thế giới, chính quyền quân phiệt Miến Điện đã chấp nhận tiến hành tổng tuyển cử vào ngày 7 tháng 11 năm 2010.  Ngày 3 tháng 3 năm 2011 Thủ tướng chính quyền quân sự ông Thein Sein tuyên thệ trở thành tổng thống Miến Điện. Tướng Min Aung  Halaing thay thế ông Than Xuề  làm tổng tư lệnh quân đội. Chính phủ mới có 34 bộ, trong đó có 23 bộ trưởng và thứ trưởng vốn là tướng lĩnh vừa mới lột bỏ quân hàm quân hiệu. Dư luận phương Tây cho rằng chính quyền quân sự Myanmar về hình thức đã mở đường cho một chính phủ dân sự sau nửa thế kỉ liên tiếp các chính phủ quân sự nắm quyền. Nhưng chế độ dân sự lần này hoàn toàn không thực chất.

Sau khi nhà cầm quyền Miến Điện dở bỏ lệnh quản thúc tại gia, tháng 7 2011 bà Aung San Suu Ky đã xuất hiện trước công chúng như một trắc nghiệm chính trị. Đi đến đâu bà cũng được nhân dân quây quần đón tiếp.  Chính quyền Miến Điện ngay lập tức cảnh báo sẽ đàn áp nếu có những cuộc tập hợp ủng hộ như trong quá khứ.

Bà San Suu Kyi được nhân dân mến mộ

Nhân dân Miến Điện cũng như những người yêu quý đất nước con người Miến Điện hy vọng vào sự trở lại chính trường của bà Suu Kyi. Chính bà cũng đã lên tiếng đề nghị ASEAN kêu gọi Mỹ và EU dở bỏ lệnh cấm vận đối với Miến Điện. Và tại cái xứ sở đầy rẫy sợ hãi này đã le lói ngọn gió đổi mới.

Tháng 1.2011 xuất hiện tấm hình các doanh nhân gặp Thống tướng Than Xuề

Ngày 7.6.2011 Một phái đoàn ngoại giao cao cấp của EU đến Răng gun khởi đầu những cuộc đối thoại về dân chủ và nhân quyền với chính phủ dân sự mới thành lập của Miến Điện.

Ngày 15.6.2011 Tồng thư ký Ban Ki-moon của Liên Hiệp Quốc cũng loan báo sẽ lập một văn phòng làm việc toàn thời gian chuyên trách về Miến Điện, để thúc đẩy quốc gia Đồng Nam Á này đổi mới chính trị.

Mong lắm thay một thể chế dân chủ thực sự cho toàn dân Miến Điện.


Bulukhin

Xem hồ sơ bác Bu

Tin nổi bật trong ngày
Tin mới nhất

Register

Newsletter

Email this story

If you really want to ban this commenter, please write down the reason:

If you really want to disable all recommended stories, click on OK button. After that, you will be redirect to your options page.